Chủ Nhật, 8 tháng 7, 2018

TRẦN ĐỨC THẢO & HOÀNG CẦM - NHỮNG KẺ SĨ ĐẤT KINH BẮC

GS. Trần Đức Thảo và Thi sĩ Hoàng Cầm (bên phải).

KẺ SĨ KINH BẮC
29.03.2017 

Kinh Bắc có hai người con kiệt xuất, cùng thời nhưng cuộc đời đầy tai ương bất trắc. Có thể hai người này là hai vết khắc sâu đậm của văn hóa Việt Nam hiện đại. Nghiệt ngã thay, cả hai ông đều là nạn nhân của những gì các ông theo đuổi; bị truy đuổi đến tận cùng bởi tài năng xuất chúng; bởi trung thành với chính mình. Cuối đời các ông đều được tặng thưởng những phần thưởng cao quý: Trần Đức Thảo được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội, Hoàng Cầm được giải thưởng nhà nước về Văn học Nghệ thuật. 

1.Triết gia Trần Đức Thảo. Với con người này, mình chưa được tiếp cận nhiều với những gì ông viết vì sách của ông rất ít phổ biến mà chắc có phổ biến mình cũng rất khó tiếp cận bởi lĩnh vực nghiên cứu của ông không phải giành cho tất cả mọi người. Chỉ biết được cuộc đời đầy cay đắng của ông qua những gì người ta viết về ông.

Giáo sư Văn học Nguyễn Đình Chú đã đánh giá về ông: “là một lưu học sinh đã làm vẻ vang cho tổ quốc trên đất Pháp với tấm bằng thủ khoa thạc sĩ triết học đến nay chưa có người thứ hai; là triết gia duy nhất của Việt Nam trên trường quốc tế với những hành động, tác phẩm nổi trội, có ý nghĩa phát triển chủ nghĩa Mác theo hướng “duy vật biện chứng nhân bản” và người khai sinh bộ môn Lịch sử tư tưởng triết học cho giáo dục Việt Nam.”

Giáo sư Trần văn Giàu khẳng định: “Ở Việt nam, người duy nhất được là nhà Triết học, chỉ có Trần Đức Thảo thôi”. Nhà văn hóa Bùi Nam Sơn cho rằng: “Đó là một trong những người Việt hiếm hoi được học hành đến nơi đến chốn về triết học và cho thấy người Việt mình cũng có thể tiếp cận rất gần với triết học thế giới”.

Sinh năm 1917, học sinh trường Trung học Pháp nổi tiếng nhất Đông dương Albert Sarraut. Đạt giải nhì cuộc thi Triết học các trường Trung học toàn quốc Pháp. Nhận học bổng phủ Toàn quyền Đông Dương học tại Pari. Đậu thủ khoa Thạc sĩ triết học thành người Việt Nam đầu tiên và duy nhất đậu Thạc sĩ Triết học tại Pháp.

Là một học giả được đào tạo bài bản của nền giáo dục hàng đầu thế giới, lại rất có tiếng tăm hứa hẹn một tương lai sán lạn của ông trên đất Pháp. Tham gia Hội nghị Fontainebleau, Bác Hồ đã tìm gặp và đề nghị Trần Đức Thảo về nước phục vụ cách mạng, năm 1952, ông đã xung phong về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến.

Năm 1955 ông trở thành Giáo sư Triết học và Phó Giám đốc đại học Văn khoa Hà Nội, Chủ nhiệm khoa Lịch sử Đại học Tổng hợp Hà Nội.

Năm 1957, ông bị quy tội tham gia Nhân văn giai phẩm, một phong trào đấu tranh vì tự do dân chủ cho văn hóa văn nghệ vì công bố một số bài báo bàn về tự do dân chủ. Bị giáng chức, tước quyền giảng dạy, Tước biên chế nhà nước (thời đó coi như hết đường sống), bị cắt đứt mọi mọi mối liên hệ với cuộc sống, bị cô lập với đồng bào và đồng chí. Một học sinh của ông kể lại: “việc gặp thầy Trần Đức Thảo từ nước Pháp tư bản trở về là rất dễ bị quy tội như bên Trung Quốc trong Đại Cách mạng Văn hoá. Gặp thầy lủi thủi đạp chiếc xe đạp mini cộc cạch cũng đành làm ngơ, nhiều khi không dám nhìn”. Một học trò khác là Giáo sư Nguyễn Đình Chú kể: “Hàng ngày vẫn gặp Thầy lên xuống ở cầu thang mà tôi cứ phải cúi mặt xuống không dám chào Thầy vì sợ liên lụy, vì xấu hổ về tội phản Thầy. Chỉ một Đoàn Mai Thi là người duy nhất không sợ gì cả vẫn thường xuyên lui tới săn sóc Thầy trong hoạn nạn, để lại một điểm son về đạo tôn sư trong lòng chúng bạn.". Còn Trần Như Tảng kể lại rằng: “Ông không bị tù hay hành hạ thân xác, nhưng công an bao vây, cô lập ông không cho ai tiếp xúc…Nếu ông Thảo tiếp xúc với ai, chẳng hạn một người bạn trên đường phố, thì người đó sẽ bị bắt giữ để điều tra. Bề ngoài xem ra triết gia sống cuộc đời bình thường. Nhưng thực tế ông sống như Robinson Crusoe, hoàn toàn cô độc, mặc dầu có nhiều người ở xung quanh. Ngay họ hàng thân thích cũng không được phép nói chuyện với ông. Đối với một trí thức như vậy là một sự tra tấn dã man."

Hành trình cuộc đời đầy cay đắng của ông có thể gom lại trong chuyện kể chết cười của bà cụ hàng nước được nhà văn Phùng Quán ghi lại:

“Dễ có đến hai năm tôi không đến khu tập thể Kim Liên. Lần này trở lại, tôi ngạc nhiên thấy cái quán của bà cụ móm dưới gốc xà cừ, mà mười năm trước tôi thường ghé hút thuốc uống nước, vẫn còn nguyên ở đó. Tôi vào quán uống chén rượu thay bữa ăn sáng. Bà cụ đang rôm rả nói chuyện với mấy anh xích lô, chắc là những khách quen… "Con cháu nhà tôi nó vừa sắm được cái ti vi màu nội địa. Tối hôm kia, bắt dây dợ xong, bật lên thấy đang chiếu cánh tang lễ một ông tên là gì gì Thảo đó. Người ta giới thiệu cái ông Thảo này là nhà triết học nổi tiếng thế giới, làm đến sáu, bảy chức, chức nào cũng dài dài là, chắc là toàn chức to được tặng huân chương Độc lập hạng hai. Ông ta sang tận bên Tây mà chết, cả Tây cả ta đều làm lễ truy điệu, toàn bộ cấp cao, có danh giá đến dự… Trong khu nhà B6 đằng kia cũng có một ông tên Thảo, nhưng lôi thôi nhếch nhác quá mấy anh công nhân móc cống. Mùa rét thì áo bông sù sụ, mùa nực thì bà ba nâu bạc phếch, quần ống cao ống thấp, chân dép cao su đứt quai, đầu mũ lá sùm sụp, cư ỡi cái xe đạp "Pơ-giô con vịt" mà mấy bà đồng nát cũng chê. Thật đúng như anh hề làm xiếc? Mặt cứ vác lên trời, đạp xem thinh thoảng lại tủm tỉm cười một mình như anh dở người… Một buổi trưa nắng chang chang, ông ghé vào quán uống cốc nước chè xanh, tôi hỏi: "Ông đi đâu về mà nắng nom vất vả thế… ế… ế…". Ông nói: Lên chợ Hàng Bè mua củi đun. Tôi hỏi: Thế củi ông để đâu cả rồi? Ông quay lại nhìn cái "poócbaga", mặt cứ ngẩn tò te. Chỉ còn có sợi dây buộc! Củi ná rơi đâu hết dọc đường, chẳng còn lấy một que… Nghĩ cũng tội, già ngần ấy tuổi đầu mà phải nấu lấy ăn, không vợ, không con… Đấy, cũng là Thảo cả đấy, mà Thảo một đằng thì chết danh, chết giá, còn Thảo này thì sống cơ cực trần ai". Bà cụ chép miệng thương cảm: "Một vài năm nay không thấy ông đạp xe ngang qua đây, dễ chết rồi cũng nên…".

Tôi uống cạn chén rượu, cười góp chuyện: "Cái ông Thảo mà bà kể đó chính là cái ông Thảo người ta chiếu tang lễ trên ti vi…". Bà già bĩu môi: "Ông đừng tưởng tôi già cả mà nói lỡm tôi!".

2. Nhà thơ Hoàng Cầm. Với nhà thơ Hoàng Cầm, mình bị mê hoặc bởi những câu thơ lộng lẫy của ông. Nhưng những câu thơ đi vào tâm khảm đầu tiên, thuộc ngay tắp lự là:

“Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh”.

Từ những câu thơ đó, mình bắt đầu hành trình đọc thơ ông cho đến hôm nay và chắc chỉ dừng lại khi không đọc được nữa.

Khó có ai mà quê hương thấm vào máu như ông, văn hóa Kinh bắc đã hóa trầm tích trong mỗi câu thơ ông, nó cứ bay lên lấp lánh, lộng lẫy với những Sông đuống, Mưa Thuận thành, Cổ bài tam cúc…:

“Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”

Sinh ra ở Thuận Thành Bắc Ninh, Tốt nghiệp tú tài toàn phần, 8 tuổi đã có thơ đăng báo. Năm 1944 ông đã tham gia Việt Minh, Cách mạng Tháng Tám, về Hà Nội xây dựng đoàn Kịch Đông Phương, phục vụ kháng chiến.

Năm 1947, tham gia Vệ quốc quân, thành lập đội Tuyên truyền Văn nghệ, năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn Văn công Tổng cục chính trị. 1955 về công tác tại Hội văn nghệ, tham gia thành lập Hội nhà Văn Việt nam. Cũng như nhiều nghệ sĩ tài năng thời đó, ông bị kết tội tham gia Nhân văn gia phẩm bị tước văn tịch.

Đầy là cuộc sống của Nhà thơ sau án phạt: "Bề ngoài, Hoàng Cầm chịu một hình phạt tương đối nhẹ là khai trừ một năm khỏi Hội Nhà văn, cho dù ông là một yếu nhân của phong trào với vai trò chủ trương hai tờ Giai phẩm và Nhân văn, khích lệ các văn nghệ sĩ tham gia, cổ vũ Văn Cao “vào cuộc” (với thi phẩm “Anh có nghe thấy không?”), chủ động in “Nhất định thắng” và can đảm bênh vực Trần Dần, v.v... 

Tuy nhiên, trong thực tế, một bản án vô hình đã treo lơ lửng trên đầu ông, khiến thi sĩ lâm vào một cuộc trầm luân kéo dài 3 thập niên: không được sống bằng ngòi bút, không được in ấn tác phẩm, người đời xa lánh... Như hồi tưởng của nhà thơ: “Nội dung kỷ luật lúc đầu thì chỉ như thế thôi. Nhưng rồi cái kỷ luật đó nó kéo quá dài. (...) riêng tôi thì cũng sáng tác tập “Về Kinh Bắc”. (...) Không hiểu lý do làm sao, nhưng đưa đến nhà xuất bản nào hay tòa báo nào cho nó đăng thì đều bị từ chối." 

Năm 1982, bị bắt, bị tống giam 18 tháng vì tập thơ “Về kinh Bắc” bằng “ ‘Lệnh bắt và khám xét khẩn cấp’ vì tội ‘lưu truyền văn hóa phẩm phản động ”, tập thơ đậm nhất về vùng văn Hóa Kinh Bắc . Ra tù ông bị bệnh tâm thần. Cuộc sống được tự ông ghi lại: "“Bà vợ tôi đã qua đời trong cảnh vô cùng nghèo đói, phải chạy ăn từng bữa một, từng dúm gạo một. Tiền thức ăn thì cũng không có, bữa cơm nào hai vợ chồng cũng phải nhịn bớt đi, nghĩa là đáng lẽ mình ăn ba bát, ăn có một bát, để nhường cho các con ăn. 

Bà vợ tôi chết vào những ngày như thế, mà lại chết vào năm 85 ấy, lúc tôi đang bị cái bệnh tâm thần, đang ở cái dạng trầm uất và hoảng loạn như thế. Vì bà ấy phải chạy từng ngày bữa ăn của gia đình. Gia đình thì đông. Mỗi một tháng lại phải lên trình diện một lần mới được người ta cấp cho 12 cân gạo. Rồi lại phải đi lên sở lương thực để lấy giấy chứng nhận nọ kia, rồi bấy giờ mới lại sang phòng tài chính để thanh toán tiền, xong rồi xuống chỗ bán hàng, xếp hàng chờ đợi. 

Tóm lại là muốn được 12 cân gạo, bà vợ tôi vất vả đến mức là nó lên một trận huyết áp rất đột ngột, chỉ mới có từ chập tối hơi sôn sốt, rồi bà ấy đi nằm, mà giữa mùa nực, bà ấy thấy có cái gì ren rét, tôi đã phải đắp cho bà ấy một cái chăn lớn. Ðến 4 giờ sáng thì người cứng ra và liệt nửa người. 9 giờ thì đem đi cấp cứu và đến chiều hôm sau qua đời.” 

Và cái chứng tâm thần mà theo ông " cũng không có gì ghê gớm lắm" hành hạ ông:

"Thật ra thì cũng không có gì là ghê gớm lắm, cũng không xé quần, xé áo, không đi ra ngoài đường, không chửi bới hay làm những gì ầm ĩ cả, bởi vì chỉ là hoảng loạn thôi. Hoảng loạn một cách hết sức lặng lẽ. Ví dụ nghe một tiếng còi ô-tô và một cái gì như là phanh ô-tô rít lên ở ngoài cửa - mà lúc bấy giờ tôi ở tít tận trong nhà cơ - nhưng khi nghe thấy như thế, vào lúc độ gần nửa đêm chẳng hạn, thì tự nhiên tôi co rúm lại và hết sức sợ hãi. 

.

Nó như là một cái bản năng đấy, tìm chỗ trốn. Quả nhiên là tôi đã có nhiều lần chui xuống gầm giường vì những hoảng loạn như thế. Hay nghe tiếng giày cộp cộp và thoáng thấy một bóng áo, như áo quân đội hay áo cảnh sát hay của một người thương binh nào đó, chỉ cần một cái bóng, một cái màu quần áo thôi, thì tôi cũng hoảng rồi. Người ta gọi là bệnh hoảng loạn. Chứ sự thực thì lúc ấy chẳng có ai dọa nạt, chẳng có ai làm gì mình cả."

Hai con người, hai chiến sĩ, hai nhà văn hóa. Đã đi trọn cuộc đời vì niềm đam mê, thao thức về trí tuệ và văn hóa. Kết cục khó có thể nói bi đát hơn nhưng nhờ thế hai ông đã để lại cho Việt Nam những hình ảnh của nhà văn hóa đích thực, những kẻ sĩ đích thực trong hoàn cảnh nhiễu nhương. Là hi vọng cho sự tồn tại nhân cách Việt, con Người Việt.


23 nhận xét :

  1. Khốn khổ thay cho những nhân cách lớn, tâm hồn lớn đầu thai vào xứ sở này.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Những kẻ đọa đày các ông sẽ bị quật mồ mả lên, không lâu nữa đâu.

      Xóa
    2. " Tài tình chi lắm cho Trời Đất ghen"
      Nghe ra cũng lắm phận hèn
      tài danh sao nỡ bôi đen mấy lần?

      Xóa
    3. Cảm thương cho những nhân tài nước Việt sinh vào thời kỳ đen tối, không chỉ có họ còn có biết bao cảnh đời khác bị tra tấn tù đày chết trong bóng tối không được biết đến. Biết đến bao giờ thì Quả báo đây???

      Xóa
  2. Lệ Chi Viên!
    ------------
    Hai con người, hai chiến sĩ, hai nhà văn hóa. Đã đi trọn cuộc đời vì niềm đam mê, thao thức về trí tuệ và văn hóa. Kết cục khó có thể nói bi đát hơn nhưng nhờ thế hai ông đã để lại cho Việt Nam những hình ảnh của nhà văn hóa đích thực, những kẻ sĩ đích thực trong hoàn cảnh nhiễu nhương. Là hi vọng cho sự tồn tại nhân cách Việt, con Người Việt.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Rồi đây những kẻ/thể chế đọa đày các ông ấy sẽ bị quả báo khủng khiếp hơn nhiều, hãy đợi đấy.

      Xóa
  3. người việt chỉ thành danh ở nước ngoài vì họ được tôn trọng tài năng thực sự chứ o như vn chỉ thành danh khi nói tốt và trung thành với chế độ

    Trả lờiXóa
  4. Nhờ thế mà làm cho Triết gia Trần Đức Thảo, Nhà thơ Hoàng Cầm trở nên vĩ đại . Cũng giống như Boris Pasternak, Solzhenitsyn, Lưu Hiểu Ba !

    Trả lờiXóa
  5. Đồng cảm bài viết của Hồ Hoàng. Xin chép vào đây bài thơ tôi viết tặng Hoàng Cầm khi ông đang còn sống, và đang bị cô lập, đói khốn khổ. Tôi rất vinh hạnh gặp trao thơ tại 43 Lý Quốc Sư Hà Nội nơi Hoàng Cầm ở. Mãi sau này bài thơ được in trong tập"Chiều chát" nhà xuất bản Thanh Niên ấn hành.HN 2001.


    NHỚ VỀ KINH BẮC

    Lên Kinh Bắc nhớ Hoàng Cầm
    Đồng chiều cuống rạ lỡ lầm diêu bông
    Váy xưa Đình Bảng còn chùng
    Mồ côi cửa võng ngập ngừng mây bay.

    Thuận Thành mưa nét xuân gầy
    Nghiêng nghiêng sông Đuống đò đầy ngại sang
    Câu quan họ trót đa mang
    Thương đàn con xít lang thang đi tìm.

    Khóc cười chỉ ấm trôn kim
    Xòe tay che mặt Lặng nhìn ngàn năm
    Gió quê vi vút xa xăm
    Chân trời rốn biển biệt tăm nỗi mình.
    Nguyễn Đào Trường

    Trả lờiXóa
  6. Chúng ta nghiêm mình tưởng nhớ những tài năng.

    Trả lờiXóa
  7. Cách khủng bố của chế độ đã thành c6ng đến nỗi một môn sinh
    là Nguyễn Đình Chú không dám chào thầy vì sọ "liên lụy" !
    "Cách mạng" cái gì mà kinh tởm thế không biết ?

    Trả lờiXóa
  8. Trần Đức Thảo giỏi về Triết học, Hoàng Cầm giỏi về Thơ điều này không một ai nghi ngờ . Nhưng cả hai ông đều NGÂY THƠ về chính trị nên các ông mới là nạn nhân của chế độ CS .

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Từ 1955 bác Thảo đã phản đối việc áp đặt chính trị đối với giới trí thức rồi,ko "ngây thơ" như bạn nghĩ đâu
      Bác là người đi trước thời đại,là một người lỗi lạc đấy

      Xóa
    2. Nói ngây thơ là nói từ đầu.Đây là bệnh chung của cái gọi là trí thức khuynh tả!

      Xóa
  9. Họ là những con người sống nhầm thế kỹ, đất Việt ôi!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Không phải sống nhầm thế kỹ mà là đầu thai nhầm thế kỹ !

      Xóa
  10. Đã vào lớp người lớn tuổi xếp hạng "xưa nay hiếm", về cuộc đời lên bờ xuống ruộng của 2 nhân vật tài năng nhưng đầy bi thảm này những ai dã từng đọc kể cả nhà thơ Hữu Loan... đều liên hệ với câu thơ của cô giáo Trần thj Lam "Đất nước mình ngộ quá phải không anh!?".
    Với ông Hoàng Cầm ở phố Lí quốc Sư xế đối diện với Nhà thờ lớn nhiều lúc đi qua tôi muốn đến thăm ông như 1 đồng loại biết ":Thương người như thể thương thân" không phải với ý nghĩa tầm thường nhưng đã không vượt qua ... những mật thám Jave thời nay...
    Còn cụ Trần đức Thảo tôi ở gần nhà B6 Kim liên nên được chứng kiến nhiều về hình ảnh 1 ông già hàng ngày thất thểu đeo bị cói đi chợ Kim liên... Và đời ông có 2 lần về Việt nam, lần đầu theo tiếng gọi của cụ Hồ Ở hội nghị Fontainebleau sau đó năm 1952 Cụ đã về ATK(an toàn khu) ở Việt bắc để tham gia kháng chiến chống Pháp.... Vậy ai có ngờ đâu lần thứ 2 chết ở Pháp về VN trong lọ tro không cơ quan nào nhận phải gửi vào gầm cầu thang nhà tang lể Phùng Hưng 50 ngày đêm trả mất 2500 đ mới có được nơi chôn cất(con số này có thể sai mời độc giã tìm đọc tác phẩm "Ba phút sự thật" của cố nhà văn Phùng Quán để biết đầy đủ hơn. Ở Cafe thứ 7 vừa qua(14/10, 3A Ngô Quyền) lần đầu tiên tôi được nghe 1 cựu quan chức nói rằng khi đưa lọ tro về VN có 2 ông quan to hang đầu nước cùng đưa về VN rất trân trọng nhưng tôi chưa hề nghe ai nói vậy? (trái với thời ông được lên nông trường chăn nuôi Ba vì "3 cùng" với các cháu nuôi bò !!!)

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Tôi vẫn chưa hiểu sau thời gian bị cô lập ở nhà B6 vì tội tham gia nhân van giai phẩm . Giáo Sư Thảo qua pháp bằng cách nào để cuối cùng ra đi trên nước pháp ? ( cũng may ông mất ở pháp nên mới có lễ truy điệu trang trọng như vậy , chứ nêu ... thì có khi lại chết âm thầm không ai đến viếng giống như lọ tro của công. ) thật xót xa khi các nhân tài bị đối xử bất công như vậy. Tôi cứ ao ước giá như năm 1952 ông không trở về nước thì có lẽ...

      Xóa
  11. Bạn cần phải đứng vững vì ít nhất một điều gì đó, nếu không, bạn sẽ ngã vì bất kỳ điều gì.

    Trả lờiXóa
  12. Tại hai cụ không ép mình vào khuôn mẫu Paven!

    Trả lờiXóa
  13. Tôi suy nghĩ hoài mà vẫn không hiểu tại sao những người trí thức lỗi lạc và có tấm lòng với quê hương như triết gia Trần Đức Thảo và nhà thơ Hoàng Cầm lại bị hãm hại chí chết như vậy, để làm gì???? tôi thật không hiểu. Đọc đoạn triết gia Trần Đức Thảo "hàng ngày thất thểu đeo bị cói đi chợ Kim Liên" tôi thấy lòng đau xót quá. Không biết lúc 'thất thểu' đó một triết gia như ông nghĩ gì? nếu ông được tự do viết lại những kinh nghiệm đó trong một tác phẩm thì sao? Việt Nam có thể đoạt được một giải văn chương của thế giới? nhưng than ôi, chỉ có một nhân tài chết âm thầm và tro cốt phải để nhờ dưới gầm cầu thang.

    Trả lờiXóa
  14. Xưa nay lòng đố kỵ ghen ghét là một động cơ rất mạnh để hại người, nhất là khi người có tài lại quá thơ ngây chất phác khiến họ trở thành quá đáng yêu, sự đố kỵ càng thêm mãnh liệt. Tôi nghĩ đây là một phần nào của lý do tại sao.

    Trả lờiXóa
  15. CS lừa giỏi nên ông thảo mới từ pháp về chiến khu

    Trả lờiXóa